Hoàn cảnh và nguyên nhân Chiến_tranh_thế_giới_thứ_hai

Chiến tranh thế giới thứ hai bắt nguồn từ những lý do khác nhau tại các khu vực địa lý khác nhau. Tại châu Âu, thế chiến thứ II là sự tiếp nối của Chiến tranh thế giới thứ nhất khi Đức muốn xóa bỏ các điều ước trong Hòa ước Versailles và mong muốn lấy lại vị thế cường quốc, đồng thời phân chia lại lãnh thổ cũng như ảnh hưởng chính trị tại châu Âu. Sự phát triển của chủ nghĩa phát xít tại châu Âu và các lãnh tụ tại Đức, Ý có tham vọng vẽ lại bản đồ quốc gia cũng như bản đồ địa chính trị châu Âu và châu Phi, phân chia lại thuộc địa, chia lại thị trường. Trong khi đó, tình hình chính trị tại Trung ÂuĐông Âu không ổn định sau khi Đế quốc Áo-Hung tan rã cũng làm chiến tranh dễ xảy ra.

Tại Thái Bình Dương, ý định trở thành cường quốc số một của Đế quốc Nhật Bản và sự thắng thế của một số tướng lãnh quân phiệt đã khiến nước này có ý đồ sáp nhập Trung Quốc và các thuộc địa lân cận (của Anh, Pháp) vào Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á để thoả mãn nhu cầu tài nguyênđảo quốc nhỏ bé này không thể tự đáp ứng được. Tham vọng chiếm thuộc địa cuối cùng đã lôi cuốn Nhật Bản vào chiến tranh.

Tình hình châu Âu

Sự trỗi dậy của chủ nghĩa phát xít

Cuộc Đại khủng hoảng trên quy mô toàn cầu vào năm 1929 khiến kinh tế trở nên tiêu điều, dân chúng các nước trở nên khốn khổ. Tại nhiều nước, người dân trở nên căm ghét chính phủ và các nhà tư bản, họ quay sang ủng hộ các tư tưởng cực đoan, đòi phát động chiến tranh để phân chia lại thuộc địa, chiếm thêm tài nguyên để giải quyết khó khăn trong nước. Trong bối cảnh đó, vào thập niên 19201930, chế độ phát xít giành được quyền lực tại ÝĐức, trong khi các đảng phát xít khác cũng có nhiều thế lực trong chính trường các nước Tây ÂuTrung Âu.

Riêng tại Đức, Đảng Đức Quốc xã và thủ lĩnh Adolf Hitler đang có hoài bão tạo ra một chính quyền mạnh. Họ đã khơi dậy và khai thác niềm tự hào dân tộc của người Đức, cũng như các nền tảng trụ cột của chủ nghĩa phát xít như sự tôn trọng quân đội và tuân thủ chính quyền. Các sự kiện này khiến Đức trở thành một nước hùng mạnh với quân đội mạnh được xây dựng trên nền tảng tư tưởng chiến lược, một nền công nghiệp phát triển nhanh trong môi trường khuyến khích thương mại và sự ủng hộ của dân chúng trong việc giành lại đất đai đã bị mất sau Chiến tranh thế giới thứ nhất và danh dự quốc gia. Tại Ý, Benito Mussolini cũng dùng thuật hùng biện như Hitler, nhưng ít thành công hơn.

Thủ lĩnh Đức Quốc xã, Adolf Hitler, đã trình bày tham vọng của mình ngay từ năm 1924, trong cuốn tự truyện Mein Kampf, cụ thể như sau:

  • Nước Đức sẽ trở thành "bá chủ của thế giới". Trước hết, phải tính sổ với nước Pháp, "kẻ thù truyền kiếp của dân Đức". Sau khi đã tiêu diệt được Pháp, Đức phải bành trướng về hướng Đông – chủ yếu là chiếm đất của nước Nga để giành lấy "không gian sinh tồn" (tức là mở rộng lãnh thổ và tài nguyên), nếu chiếm được nước Nga, nước Đức sẽ không còn bị bó hẹp trong lãnh thổ bé nhỏ hiện tại mà sẽ trở thành một đại quốc có lãnh thổ rộng bao la.
  • Về tính chất của nhà nước Quốc xã tương lai, Hitler nói rõ rằng sẽ không có cái trò "dân chủ ngu xuẩn" và rằng Đế quốc thứ Ba sẽ được đặt được một thể chế độc tài.
  • Hitler xem mọi đời sống như là sự tranh đấu trường kỳ và thế giới như là khu rừng, trong đó chủng tộc nào mạnh hơn sẽ sống sót và thống trị. Đây là điều cốt lõi của tư tưởng Quốc xã về tính ưu việt của chủng tộc Aryan (người Đức). Và nếu chủng tộc Aryan muốn vượt lên trên thì phải chà đạp những chủng tộc khác, đặc biệt là những chủng tộc mà Hiler xem là cỏ rác – đó là Do TháiSlav (người Nga).

Sau khi Hitler lên nắm chính quyền, ông ta đặt ưu tiên vào việc xây dựng lại quân đội. Đức bỏ tiền ra để nghiên cứu các vũ khí nguy hiểm hơn và xây dựng các công nghiệp quân sự. Trong khi đó, nhiều nhà tài phiệt Anh, Mỹ và phương Tây đã cung cấp tài chính cho Hitler vào những năm 1930 để ông ta có thể chi trả cho các hoạt động chính trị cũng như giúp Đức gây dựng nền công nghiệp quân sự (vấn đề mối quan hệ tài chính của Đức Quốc xã với các tập đoàn tư bản Mỹ được che giấu triệt để đã được nhà kinh tế học người Anh nổi tiếng Anthony Sutton làm rõ trong cuốn sách "Phố Wall và sự nổi lên của Hitler"[9]). Các tài liệu mới giải mật từ kho lưu trữ Hoa Kỳ cho thấy Thượng nghị sĩ Prescott Bush (cha của Tổng thống Mỹ thứ 41 và ông nội của Tổng thống Mỹ thứ 43) là một trong những nhà tài phiệt Mỹ đã tham gia giao dịch với các kiến ​​trúc sư tài chính của chủ nghĩa phát xít[10].

Vào năm 1936, với ý định đáp trả hiệp ước tương trợ Pháp-Xô năm 1935, Hitler đã đem quân tái chiếm đóng Rhineland, vùng đất mà theo quy định của Hòa ước Versailles là không thuộc về người Đức. Chính phủ Pháp lúc ấy đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng tài chính ở trong nước khiến đồng franc mất giá[11], nên họ chủ trương tránh gây sự với người Đức mặc cho Đảng Cộng sản Pháp kêu gọi chính phủ có hành động quân sự nhằm lấy lại quyền kiểm soát đối với khu vực này. Chính phủ Anh cũng ủng hộ hành động xâm lược của Đức trong tình cảnh người dân Anh kêu gọi chính phủ không dùng vũ lực để giải quyết cuộc khủng hoảng và đa số người Anh tin rằng các thỏa thuận của hiệp ước Versailles là bất công đối với nước Đức[12].

Giới chức Anh, Pháp, Mỹ, bất chấp sự trỗi dậy của Đức Quốc Xã, đã tích cực đầu tư vào nền kinh tế Đức, tạo điều kiện cho bộ máy chiến tranh của phát xít Đức phát triển[13]. Hãng sản xuất vũ khí danh tiếng của Anh Vickers-Armstrong đã cung cấp vũ khí hạng nặng cho Đức, trong khi các công ty Mỹ như Pratt & Whitney, Douglas, Bendix Aviation... cung cấp cho Đức các bằng sáng chế, bí mật quân sự và các động cơ máy bay tối tân[14]. Thủ tướng Anh Stanley Baldwin tóm tắt vấn đề vào tháng 7 năm 1936 như sau: “Nếu chiến sự có diễn ra ở châu Âu, thì tôi mong đó sẽ là cuộc chiến giữa Bolshevik (Liên Xô) và Đức Quốc Xã”[15].

Quan hệ giữa các nước châu Âu

Sự trỗi dậy của Đức được coi là một mối đe dọa đối với Ba Lan. Người Đức đã liên tục gây sức ép đòi trả lại vùng Danzig, vùng lãnh thổ được sáp nhập vào Ba Lan theo hòa ước Versailles. Người Ba Lan kêu gọi sự giúp đỡ từ nước Pháp đề phòng trường hợp xảy ra đụng độ với Đức, nhưng Pháp tỏ ra khá thờ ơ [16]. Sự từ chối hợp tác của Pháp có thể coi là một trong những lí do khiến Ba Lan quyết định đàm phán với người Đức [17][18][19][20][21]. Ngoài ra, do thủ tướng Đức Adolf Hitler là người Áo nên Thủ tướng Ba Lan Piłsudski coi Hitler là người "kém nguy hiểm hơn" các tiền nhiệm người Đức như Gustav Stresemann, và ông ta cho rằng Liên Xô là mối đe dọa lớn hơn. Do vậy Ba Lan chủ trương hợp tác với Đức để cùng chống lại Liên Xô, thậm chí nước này phản đối các nỗ lực của PhápTiệp Khắc để đưa Liên Xô vào một mặt trận chung chống lại Đức.

Thủ tướng Ba Lan Józef Piłsudski, Bộ trưởng tuyên truyền Đức Joseph Goebbels gặp nhau ở Warsaw ngày 15 tháng 6 năm 1934, 5 tháng sau khi Ba Lan và Đức ký Hiệp ước

Hiệp ước Không xâm lược giữa Ba Lan và Đức, ký vào ngày 26 tháng 1 năm 1934 có hiệu lực 10 năm. Đức đòi hỏi khu vực Danzig, Ba Lan đòi hỏi Korridor và đòi sửa lại biên giới vùng Oberschlesien. Khi Đức tấn công Tiệp Khắc (năm 1938), Ba Lan đã đem quân xâm chiếm vùng Tesschen của Tiệp Khắc, vùng lãnh thổ mà họ đã có tranh chấp với Tiệp Khắc năm 1919, trước khi vùng đất này rơi vào tay Đức. Đây là vùng lãnh thổ có khá đông người Ba Lan sinh sống, và đa số người dân địa phương hoan nghênh sự chiếm đóng này [22] mặc dù sau đó họ đã tỏ ra không hài lòng trước chính sách đồng hóa những người dân Tiệp Khắc sống tại đây. Phát xít Đức chấp nhận để cho Ba Lan chiếm giữ Tesschen, khiến cho nhiều người Tiệp Khắc về sau đã cáo buộc chính phủ Ba Lan đồng lõa với quân xâm lược Phát xít Đức, dù chính phủ Ba Lan đã liên tục phủ nhận[23].

Trong các năm 1936-1937, Liên Xô đã giúp đỡ những người Cộng hòa Tây Ban Nha chống lại quân phiến loạn phát xít Tây Ban Nha của Franco (còn gọi là phe Quốc gia) được Adolf HitlerBenito Mussolini cũng như chế độ độc tài của SalazarBồ Đào Nha và cả Tòa thánh Vatican hậu thuẫn. AnhPháp tuyên bố không can thiệp vào cuộc nội chiến, nhưng cả hai đều có những động thái của riêng mình. Đa số giới lãnh đạo Anh ngả về phe Quốc gia của Franco bởi tư tưởng chống cộng của họ. Ngoại trưởng Anh lúc đó là Eden đã tiết lộ rằng chính phủ Anh "ưa thích một chiến thắng của phe nổi dậy hơn một chiến thắng của phe Cộng hòa" [24]. Hải quân Hoàng gia Anh cũng công khai ủng hộ phe Quốc gia của Francisco Franco. Trong cuộc nội chiến, Hải quân Hoàng gia đã liên tục cung cấp thông tin về vận chuyển của phe Cộng hòa cho các lực lượng Phát xít, và tàu HMS Queen Elizabeth thậm chí đã được sử dụng để ngăn chặn Hải quân phe Cộng hòa tấn công cảng Algeciras. Ở Pháp thì xảy ra một sự chia rẽ sâu sắc khi những người cánh tả yêu cầu chính phủ của họ hỗ trợ những người Cộng hòa, trong khi phe cánh hữu lại muốn giúp đỡ lực lượng Phát xít. Chính phủ Pháp của Léon Blum có cảm tình hơn với phe Cộng hòa do họ lo sợ rằng việc phe Franco lên nắm quyền tại Tây Ban Nha sẽ tạo ra thế bao vây của các lực lượng phát xít đối với nước Pháp.[25] Chính phủ Pháp đã có một số hành động nhằm thể hiện sự ủng hộ cho phe Cộng hòa, song từ chối can thiệp sâu hơn một phần cũng bởi sức ép từ Anh và các đảng phái ủng hộ phát xít ở trong nước. Mỹ với Đạo luật Trung lập đã tuyên bố không tham gia vào những sự kiện bên ngoài châu Mỹ, và đến ngày 6 tháng 1 năm 1937 thì Quốc hội cũng thông qua nghị quyết về việc cấm xuất khẩu vũ khí sang Tây Ban Nha [26] Vào năm 1938, khi phe Cộng hòa đứng trước nguy cơ thất bại, Tổng thống Franklin D. Roosevelt đã đề xuất bãi bỏ việc cấm bán vũ khí và yêu cầu đưa máy bay sang Tây Ban Nha nhằm giúp đỡ Phe Cộng hòa song không được Quốc hội chấp thuận [27]. Một số nhà tài phiệt Mỹ giai đoạn này đã ủng hộ Phe phát xít của Franco bằng cách cung cấp xăng dầu, phương tiện vận tải cũng như tiền bạc, thậm chí những sự giúp đỡ này còn được đánh giá là đã "góp phần quyết định cho chiến thắng về sau của phe Phát xít"[28].

Nước Đức và nước Ý của Adolf HitlerBenito Mussolini thì công khai ủng hộ phe Quốc gia. Họ đã gửi binh lính, máy bay, xe tăng và các loại vũ khí khác cho phe Franco. Chính phủ Ý gửi "Quân đoàn tình nguyện", còn Đức gửi Binh đoàn Condor (Condor Legion). Lực lượng Quân đoàn tình nguyện lên đến đỉnh điểm với 50.000 quân và tổng cộng có tới 75.000 người Ý tham chiến ở Tây Ban Nha. Thời kỳ cao điểm có chừng 10.000 quân Đức, trong tổng số 16.000 người đến Tây Ban Nha tham chiến[29]. Ngược lại với Đức và Ý, Liên Xô chủ trương giúp đỡ phe Cộng hòa nhưng với hình thức bí mật. Chính phủ Liên Xô cung cấp viện trợ khí tài cho lực lượng Cộng hòa, và được chính phủ Cộng hòa trả bằng vàng dự trữ của ngân khố quốc gia. Mặc dù vậy chất lượng các loại vũ khí mà Liên Xô bán cho phe Cộng hòa là không đồng bộ khi hầu hết các loại súng trường và súng ngắn do họ cung cấp đều đã cũ, lạc hậu hoặc chỉ có thể sử dụng hạn chế (một số có từ những năm 1860) trong khi các loại xe tăng như T-26BT-5 lại khá hiện đại và tỏ ra hiệu quả trong chiến đấu.[30][31] Liên Xô cung cấp máy bay cho Phe Cộng hòa bằng lực lượng của họ nhưng máy bay do Đức cung cấp cho lực lượng Quốc gia đã tỏ ra vượt trội hơn vào cuối cuộc chiến. "Quân tình nguyện Liên Xô" được đưa sang Tây Ban Nha tham chiến chỉ có 700 người, đa phần là các phi công máy bay, hoặc lái xe tăng. Ngoài ra còn có những chiến sĩ của các Lữ đoàn quốc tế chiếm phần lớn nhất trong số các chiến sĩ quốc tế chiến đấu cho chính quyền Cộng hòa. Chừng 30.000 người được cho là đến từ 53 quốc gia khác nhau chiến đấu trong các lữ đoàn quốc tế.

Cuộc Nội chiến tại Tây Ban Nha kết thúc vào 1 tháng 4 năm 1939, với thắng lợi của phe nổi dậy và việc thiết lập chế độ độc tài của thủ lĩnh phe Quốc gia là Tướng Francisco Franco. Franco đưa Tây Ban Nha đi theo mô hình phát xít tương tự như HitlerMussolini, nhưng tuyên bố trung lập trong chiến tranh thế giới thứ 2.

Ngày 1 tháng 3 năm 1938, nước Đức quốc xã thôn tính nước Áo mà không cần nổ một phát súng. Việc Áo sáp nhập vào Đức nhận được sự ủng hộ nhiệt liệt của nhân dân hai nước [32] nên cả Anh, Pháp đều không có động thái phản đối [33]. Thủ tướng Anh Neville Chamberlain tuyên bố: "Chúng ta phải tránh bị mắc lừa. Và chúng ta cũng không để cho các nước nhỏ có ảo tưởng về sự giúp đỡ của Hội Quốc Liên có thể dành cho họ để chống lại sự xâm lược".[34]. Ngược lại Bộ trưởng dân ủy ngoại giao Liên Xô tuyên bố lên án cuộc xâm lược này của Đức [35].

Lễ ký Hiệp ước Munich năm 1938 giữa Anh, PhápĐức. Adolf Hitler đứng giữa, Thủ tướng Anh Neville Chamberlain đứng ngoài cùng bên trái

Sau khi Áo bị sáp nhập với Đức, Hitler đòi hỏi vùng Sudetenland từ Tiệp Khắc. Đây là vùng đất có số lượng lớn người gốc Đức sinh sống. Tháng 8 năm 1938, quân đội Đức tập trung 30 sư đoàn quanh biên giới Tiệp Khắc, sẵn sàng tấn công nước này. Báo chí Đức, với ý định gây áp lực cho các cường quốc phương Tây chấp nhận yêu sách của Hitler, cũng liên tục đưa ra những thông tin về tội ác của người Tiệp Khắc đối với những người dân gốc Đức tại Sudetenland [36]. Hitler thậm chí còn cáo buộc chính phủ Tiệp Khắc đang dần dần tiêu diệt những người gốc Đức sống tại đây [37].

Đến lúc này, tham vọng của Hitler đã lộ rõ, Liên Xô đề nghị với Anh - Pháp việc gạt bỏ những mâu thuẫn giữa hai phía và thành lập một liên minh nhằm ngăn chặn Hitler nhưng bị 2 nước này từ chối. Ngược lại, Anh - Pháp lại nhận lời mời của Ngoại trưởng Đức Ribbentrop và tham gia ký Hiệp ước Munich trong ngày 29, 30 tháng 9 năm 1938 giữa tứ cường Anh, Đức, Pháp, Ý. Kết quả của hội nghị này là một hiệp ước không xâm lược lẫn nhau được ký giữa bốn nước này (Hiệp ước Munich) ngày 30 tháng 9 bất chấp sự phản đối của chính phủ Tiệp Khắc. Chính phủ Pháp cũng đồng ý với Đức và Anh loại Liên Xô (nước ủng hộ Tiệp Khắc) ra khỏi hội nghị Munich.[38]

Bằng Hiệp định Munich, vùng Sudentenland được sáp nhập vào Đức, đổi lại Anh và Pháp muốn Hitler cam kết sẽ không tiến hành bất cứ một cuộc chiến xâm lược nào ở châu Âu [39]. Anh và Pháp cũng thừa nhận việc Đức Quốc xã thôn tính nước Áo là việc đã rồi đồng thời làm ngơ cho Hitler đánh chiếm xứ BohemiaMoravia, chiếm phía tây Tiệp Khắc; đặt Ba Lan và cả Liên Xô trước nguy cơ xâm lược của nước Đức Quốc xã[40] Sau khi ký Hiệp định Munich, Thủ tướng Anh Chamberlain đã tự tin tuyên bố "đây là hòa bình cho chúng ta". Trong một lá thư gửi Tổng giám mục Canterbury, Chamberlain đã viết rằng: "Tôi chắc chắn rằng một ngày nào đó người Séc sẽ thấy rằng những gì chúng tôi đã làm là nhằm bảo đảm cho họ một tương lai tốt đẹp hơn. Và tôi thực sự tin rằng những gì chúng tôi đã làm sẽ chứng minh rằng nhượng bộ là thứ duy nhất có thể cứu thế giới khỏi chiến tranh."[41] Liền sau Hiệp ước Munich, 2 hiệp ước khác được Anh-Pháp ký với Đức:

Hai nước AnhPháp đã đánh giá quá cao sức mạnh của Đức lúc bấy giờ cho nên họ tìm mọi cách để tránh chiến tranh với Hitler. Chính phủ cả hai nước đều cho rằng lực lượng vũ trang của Đức là vượt trội so với họ ở thời điểm đó nên cả hai đã đẩy nhanh việc hiện đại hóa quân đội của nước mình nhằm đối phó với Đức. Sự nghi kỵ từ lâu của họ đối với chính quyền Liên Xô của Stalin cũng khiến họ không muốn lập liên minh với Liên Xô. Qua Hiệp ước München vào ngày 29 tháng 9, Anh- Pháp đã vứt bỏ liên minh quân sự với Cộng hoà Tiệp Khắc và buộc Tiệp Khắc phải cắt cho Đức một phần lãnh thổ để thỏa mãn yêu cầu của Đức. Nhưng không dừng lại ở đó, đến ngày 16 tháng 3 năm 1939, Đức đã chiếm đóng toàn bộ lãnh thổ Tiệp Khắc. Liên Xô ra tuyên bố phản đối Đức, nhưng Anh-Pháp vẫn bỏ qua việc này. Thấy tình hình thuận lợi, cả Ba LanHungari cũng theo chân Đức, đưa quân chiếm một phần lãnh thổ Tiệp Khắc. Ý theo gương Đức, đã tiến hành xâm lược Ethiopia năm 1935 và sáp nhập Albania vào ngày 12 tháng 4 năm 1939[43].

Cây bút Ekaterina Blinova của Nga trong một bài viết đã cáo buộc rằng nước Anh không chỉ bỏ mặc Tiệp Khắc cho Hitler xâm chiếm mà còn tình nguyện trao gần 9 triệu USD tiền vàng vốn thuộc về Tiệp Khắc cho Đức Quốc xã. Các thỏi vàng của Tiệp Khắc đã được gửi ngay cho Hitler vào tháng 3 năm 1939 khi quân Đức chiếm Praha. BLinova cũng cho rằng chính phủ Anh thực sự đã ngăn chặn và làm phá sản một âm mưu đảo chính của một nhóm sĩ quan cao cấp của quân đội Đức nhằm vào Adolf Hitler vào năm 1938, khi Hitler ra lệnh tấn công Tiệp Khắc. Bài viết cũng trích dẫn lời của tác giả Anh Michael McMenamin cho biết: “Về mặt lịch sử, không có nghi ngờ gì về việc phong trào kháng chiến Đức đã liên tục cảnh báo cho người Anh về ý đồ của Hitler là muốn xâm lược Tiệp Khắc vào tháng 9 năm 1938... Tuy nhiên, để đáp lại, chính phủ Anh khi đó đã thực hiện mọi bước đi ngoại giao có thể để... phá hoại phe đối lập với Hitler.”[15]

Sau Hiệp ước Munich, nhiều quốc gia đã quay sang tìm cách thỏa hiệp với Đức do họ lo sợ mình sẽ rơi vào thảm cảnh tương tự như Tiệp Khắc. Ngày 7 tháng 6 năm 1939, hiệp ước không xâm lược lẫn nhau được Đức Quốc xã tiếp tục ký với ba nước Baltic (Estonia, Latvia, Litva) và Đan Mạch, những nước có biên giới nằm khá gần Liên Xô. Với các hiệp ước này, Đức Quốc xã cam kết sẽ bảo vệ những quốc gia nói trên khỏi "mối đe dọa" từ Liên Xô và Phương Tây[44].

Việc Anh, Pháp từ chối lập liên minh với Liên Xô và ký với Đức hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau, đồng thời bỏ mặc Tiệp Khắc cho Đức tiêu diệt, tất cả khiến Liên Xô vô cùng lo ngại. Trong một bài phát biểu tại Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ 18 vào ngày 10 tháng 3 năm 1939, Stalin đã chỉ trích Phương Tây và cho rằng họ không thành tâm trong việc chống lại Hitler, và thực chất mọi hành động của họ chỉ nhằm hướng cỗ máy chiến tranh của Đức nhắm vào Liên Xô[45][46].

Tháng 4 năm 1939, trong một nỗ lực cuối cùng để cứu vãn nền an ninh tập thể của châu Âu, Liên Xô mở lại các cuộc thương lượng với Anh và Pháp nhằm tìm kiếm một hiệp định tương trợ thật sự với các nước Tây Âu và Đông Âu. Liên Xô tin rằng một cuộc chiến tranh là khó có thể tránh khỏi và mong muốn có một hiệp ước Tay Ba với Anh và Pháp đồng thời đề xuất mở một cuộc tấn công hai cánh vào nước Đức.[47]. Ở chiều ngược lại chính phủ AnhPháp tin rằng hoàn toàn có thể tránh được chiến tranh và chủ trương nhượng bộ với Đức, đồng thời bác bỏ đề xuất của Liên Xô. AnhPháp cũng tỏ thái độ nghi ngại về khả năng thực sự của quân đội Liên Xô trong một mặt trận quân sự chống lại Đức, khi xét đến việc Liên Xô đã bị suy yếu sau cuộc thanh lọc chính trị của Stalin cách đó không lâu. Mặc dù người Nga thực lòng muốn ký một hiệp ước phòng thủ chung càng sớm càng tốt với Anh và Pháp nhưng họ đã vấp phải sự lạnh nhạt của các chính phủ này[43], hiệp định tương trợ mà Liên Xô muốn xây dựng với các nước Tây Âu đã không thể được thực hiện.

Trước tình hình đó, Stalin cho rằng một cuộc chiến với Đức không còn là ưu tiên hàng đầu của ông ta và bắt đầu quay sang đàm phán với Đức. Từ tháng 4 đến tháng 7, hai bên đã có những cuộc tiếp xúc bí mật với nhau thông qua các đoàn ngoại giao.[48]. Những buổi gặp mặt này bề ngoài tưởng chừng là những cuộc hội đàm kinh tế, nhưng dần dần hai bên đã dần chuyển qua đàm phán nhằm tìm kiếm một thỏa thuận chính trị mà cụ thể là một hiệp ước không xâm lược giữa hai nước. Từ tháng 5, Stalin đã loại bỏ Maxim Litvinov, một người Do Thái, ra khỏi vị trí Bộ trưởng ngoại giao với lý do "thân Phương Tây" và thay bằng Vyacheslav Molotov. Stalin sau đó cũng loại bỏ các bộ trưởng là người Do Thái khỏi chính quyền[49][50][51]. Hành động của Stalin đã xóa đi một trở ngại lớn trong việc xích lại gần hơn với Đức. Vào đầu tháng 8 năm 1939, Đức và Liên Xô đã bỏ qua hoàn toàn các thỏa thuận kinh tế, và bắt đầu thảo luận về một liên minh chính trị [52]. Họ giải thích cho nhau về những lí do cho sự thù địch giữa hai bên trong những năm 30, tìm cơ sở chung cho chính sách chống chủ nghĩa tư bản ở cả hai nước [cần giải thích] [53][54]

Vào ngày 22 tháng 5, Ý và Đức ký Hiệp ước Thép, chính thức hoá liên minh quân sự giữa hai nước. Về sau, hiệp ước được mở rộng thêm Đế quốc Nhật Bản, làm thành bộ ba Đức-Ý-Nhật, 3 cường quốc lớn nhất của phe Trục trong thế chiến thứ 2.

Cũng trong tháng 8, ba nước Anh, PhápLiên Xô mở lại cuộc đàm phán cuối cùng về một liên minh quân sự chống Đức. Ở cuộc gặp mặt, Liên Xô yêu cầu Ba Lan cho phép Hồng quân Liên Xô tiến quân qua lãnh thổ nước này nhằm ngăn chặn một cuộc tấn công của Đức.[55][56] Anh và Pháp cũng đề nghị chính phủ Ba Lan đồng ý với yêu cầu của phía Liên Xô, nhưng chính phủ Ba Lan đã từ chối đề nghị này. Ngoại trưởng Ba Lan Józef Beck cho rằng đây chỉ là cái cớ của Stalin nhằm thực hiện ý định chiếm đóng Ba Lan và một khi Hồng quân đã tiến vào Ba Lan, họ sẽ không bao giờ rút đi [57][58]

Giờ đây Liên Xô đứng trước 2 sự lựa chọn: hoặc sẽ bị cô lập và phải một mình chống đỡ với các cuộc tấn công của phát xít Đức; hoặc phải đàm phán với Đức để ký một hiệp ước không xâm lược nhằm tranh thủ thời gian củng cố quân đội. Tình hình cho thấy sự lựa chọn thứ hai là không thể tránh khỏi. Vào ngày 23 tháng 8, Đức và Liên Xô chính thức ký Hiệp ước Molotov-Ribbentrop, một thoả thuận không xâm lược trong đó có một điều khoản bí mật chia sẻ vùng ảnh hưởng tại Đông Âu giữa hai nước này. Thoả thuận này làm các nước Tây phương ngạc nhiên, nếu nhớ rằng hai nước này đã ủng hộ hai phía khác nhau trong Nội chiến Tây Ban Nha vừa mới kết thúc. Tuy nhiên với Liên Xô, hành động này không có gì khó hiểu vì Anh-Pháp đã từ chối lập liên minh chống Đức, mà họ thì không muốn một mình đối đầu với Đức tại thời điểm đó.

Tình hình châu Á

Xe tăng Liên Xô dàn đội hình tấn công quân Nhật trong chiến dịch Khalkhyn Gol

Tại châu Á, sau khi hứng chịu cuộc Đại khủng hoảng năm 1929, Đế quốc Nhật Bản cũng đi theo con đường quân phiệt và phát xít hóa giống như Đức. Các nước thực dân phương Tây chiếm nhiều thuộc địa với lãnh thổ rộng lớn như Anh, Pháp, Mỹ đã tạo nên những vùng độc quyền khai thác tài nguyên nhằm bảo vệ quyền lợi kinh tế của riêng nước mình. Những thế lực mới nổi bị chậm chân trong cuộc chia chác thuộc địa thế giới là Đức, ÝNhật. Nhật Bản thiếu các nguồn tài nguyên một cách trầm trọng, họ buộc phải nhập khẩu các nguyên liệu như sắt, dầu mỏthan đá vì thiếu các tài nguyên thiên nhiên ở trong nước để duy trì tăng trưởng trong ngành công nghiệp. Người Nhật cảm thấy rằng đã đến lúc cần phát động chiến tranh để giành lấy các thuộc địa giàu tài nguyên tại châu Á từ tay các nước thực dân phương Tây là AnhPháp.

Mặt khác, cũng như Đức quốc xã, Nhật bản thi hành chính sách chống chủ nghĩa Cộng sản rất mạnh, bởi học thuyết Cộng sản chủ nghĩa chủ trương bình đẳng xã hội, điều này rõ ràng là xâm phạm đến quyền lực của Thiên Hoàng, các quý tộc, những nhà tư bản và cả giới quân nhân hiếu chiến, các lực lượng đang cai trị Nhật Bản khi đó. Vào năm 1936, Nhật Bản đã ký kết "Hiệp định phòng Cộng Nhật - Đức" (Nichidoku bôkyô kyôtei) với nước Đức quốc xã. "Phòng Cộng" có nghĩa là ngăn chặn chủ nghĩa Cộng sản, quốc gia bị xem như là đối tượng thù địch không được nêu tên trong hiệp ước này, nhưng ai cũng ngầm hiểu đó chính là Liên Xô.

Trong thời gian này, ảnh hưởng của cuộc Đại khủng hoảng năm 1929 đã làm cho chính phủ dân sự Nhật sụp đổ, tinh thần quân phiệt cực đoan tại Nhật tăng cao. Đứng trước cuộc khủng hoảng đó, những nhóm Gunbatsu (quân phiệt Nhật) đã chủ trương giải quyết các vấn đề quốc gia bằng chính phủ độc tài và chính sách xâm lược.[59] Liên minh với các Gunbatsu là các nhà tài phiệt Zaibatsu gồm 4 tập đoàn tài chính lớn Mitsubishi, Mitsui, SumitomoYasuda kiểm soát nền công nghiệp Nhật và chiếm 3/4 số cổ phần cả nước.[60] Chính phủ quân phiệt được thành lập, mặc dù việc nắm quyền của quân đội sẽ gây một số hạn chế nhưng họ đảm bảo thực hiện các mong ước của Nhật hoàng Hiro Hito. Chủ nghĩa quân phiệt Nhật đã chuẩn bị một kế hoạch chiến tranh quy mô lớn nhằm đánh bại thế lực cường quốc phương Tây, độc chiếm khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Năm 1927, thủ tướng Nhật Tanaka Giichi đã trình lên Nhật hoàng kế hoạch chiến tranh bành trướng của Nhật Bản gồm 4 bước: đánh chiếm Mãn Châu, độc chiếm Trung Quốc, làm chủ châu Á và sau cùng là bá chủ toàn cầu.[61]

Quân Nhật đánh chiếm Quảng Đông, Trung Quốc năm 1938Sĩ quan Nhật thuyết trình về chiến lược Tân Thái Bình Dương cho binh sĩ

Nhật Bản đã xâm chiếm Mãn Châu (Trung Quốc) từ năm 1931. Các khu vực bị Nhật chiếm đóng trong quốc gia đang bị chia cắt này ngày càng lớn trong những năm cuối thập niên 1930. Chiến tranh Trung-Nhật (1937-1945) đã bùng nổ sau khi Nhật lấy cớ sự kiện Lư Câu Kiều để đưa quân tấn công Trung Quốc. Với ưu thế vượt trội về không quân và hải quân, cũng như tinh thần kỷ luật cao của binh sĩ, Nhật Bản nhanh chóng chiếm đóng hầu hết miền đông bắc Trung Quốc.

Lúc này, hai phía Quốc dân đảng và Cộng sản đảng chấp nhận ngừng chiến để tập trung vào việc đánh đuổi Nhật Bản ra khỏi Trung Quốc. Cuộc chiến còn có sự tham gia của Không quân Liên Xô để hỗ trợ cho quân Trung Quốc lúc này còn rất yếu về không quân so với Nhật.

Lúc đầu, Trung Quốc giành được một số thắng lợi, nhưng sau này đà thắng quay sang phía Nhật và họ đã chiếm luôn cả nhiều vùng miền Đông Nam Trung Quốc. Trong cuộc tấn công của Nhật có nhiều sự kiện khi dân thường bị tàn sát tàn nhẫn, trong đó có sự kiện Thảm sát Nam Kinh, đã khiến dư luận quốc tế ra áp lực đòi hỏi Nhật rời khỏi Trung Quốc, tuy nhiên Nhật Bản phớt lờ những sức ép này. Hoa Kỳ, nước đang nắm giữ nhiều đảo ở Thái Bình Dương và Phillipine, đã bày tỏ sự lo ngại đối với các hoạt động của Nhật, và bắt đầu dùng các biện pháp trừng phạt như không cho hàng hóa được tàu chở đến Nhật, nhất là dầu mỏ.

Nhật đã chiếm đóng hầu hết các khu vực thành thị và công nghiệp tại Trung Quốc trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu (sau sự kiện cầu Lư Câu 1937). Tuy thế, Trung Quốc không có hai tài nguyên quan trọng trong việc phát triển và bảo đảm an ninh của Nhật: đó là dầu mỏcao su. Có hai quan điểm trong các tướng lãnh Nhật về cách đạt được các tài nguyên này: một là đánh vào phía bắc, tức là vào lãnh thổ Liên Xô và chiếm lấy một phần lớn của Siberi và hai là đánh xuống phía nam vào các thuộc địa của Âu Châu tại Đông Nam Á.

Sau đó, Chiến tranh biên giới Xô-Nhật nổ ra khi Nhật bản muốn xâm chiếm lãnh thổ viễn đông của Nga và phía đông Mông Cổ. Nhật bản cho rằng lục quân Liên Xô cũng giống như họ, chỉ có trang bị nhỉnh hơn thời Thế chiến thứ nhất đôi chút, nhưng khi giao chiến thì Nhật thấy rằng lúc đó quân đội Liên Xô đã được cơ giới hoá quá nhanh, vượt xa trình độ của lục quân Nhật. Kết quả là lục quân Nhật Bản bị Liên Xô đánh bại 2 lần liên tiếp, và các chỉ huy Nhật Bản kết luận rằng cách đánh vào phía bắc không thể giành được chiến thắng. Sau thất bại trong trận Khalkhin Gol, Nhật Bản và Liên Xô đã ký một hiệp ước trung lập vào ngày 13 tháng 4 năm 1939. Nhiều sử gia Liên Xô cho rằng việc thất bại trong chiến dịch Khalkhin Gol đã khiến Nhật từ bỏ kế hoạch xâm lược Liên Xô, dù sau này Đức Quốc xã đã đề nghị Nhật cùng hợp sức tấn công Liên Xô vào năm 1941[a][b][c].

Không thể tiến lên phía bắc, giờ đây tham vọng của Nhật được hướng xuống phía nam, vào các thuộc địa của Anh, Pháp, Hà Lan tại khu vực Đông Nam Á. Chiếm được vùng này, Nhật Bản sẽ có được hai tài nguyên quan trọng là dầu mỏcao su, cho phép họ đủ sức tranh đoạt vị trí bá chủ ở Thái Bình Dương với Anh và Hoa Kỳ.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_tranh_thế_giới_thứ_hai http://www.wwii.ca/ http://www.e-lir.ch/e-LIR___Lexicon.1129.450.0.htm... http://www.hls-dhs-dss.ch/textes/f/F008927.php http://www.amazon.com/Struggle-Europe-Turbulent-Co... //www.amazon.com/dp/B00005W210 http://artukraine.com/old/famineart/SovietCrimes.p... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/648813 http://www.britannica.com/eb/article-5721 http://www.cassino2000.com/cdsc/studi/archivio/n07... http://www.cnn.com/WORLD/9609/23/rare.photos/index...